Học tập tư tưởng Bác về thương binh, liệt sỹ và công tác đền ơn đáp nghĩa

Bác Hồ dâng hương, đặt vòng hoa trước Tượng đài liệt sỹ tại Thủ đô Hà Nội ngày 31/12/1954- TL

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến thương binh, liệt sỹ – những con người dũng cảm xả thân, cống hiến xương máu, hy sinh tính mạng của mình để bảo vệ cho Tổ quốc độc lập, tự do; cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình cho tương lai đất nước, hạnh phúc cho nhân dân. Cảm thông với những thiệt thòi của thương binh, liệt sĩ và gia đình họ trong cuộc sống hoà bình, Bác đã kêu gọi đồng bào chia sẻ với những tâm tư, mất mát lớn của thương binh, liệt sĩ. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành, xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm hệ thống các quan điểm lý luận được rút ra từ thực tiễn cách mạng, từ sự kế thừa và phát triển những giá trị nhân văn của dân tộc và thời đại mà đỉnh cao là chủ nghĩa nhân đạo Mác – Lênin, phản ánh tình yêu thương, quý trọng, quan tâm, bao dung, độ lượng đến con người và niềm tin vững chắc vào sức mạnh của con người; phản ánh con đường giải phóng con người một cách triệt để nhằm xây dựng một chế độ xã hội, trong đó con người có điều kiện phát triển toàn diện và phát huy hết mọi năng lực sáng tạo vốn có của mình. Chính vì vậy, trong bài thơ “Bác ơi” của nhà thơ Tố Hữu, tác giả đã khái quát tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bằng câu thơ đạt đến sự cô đúc, chính xác và giản dị như một chân lí: “Bác ơi, tim Bác mênh mông thế. Ôm cả non sông, mọi kiếp người”. Bác Hồ luôn dành tình yêu vô hạn và sự trân quý cho tất cả mọi người, nhưng đối với thương binh, liệt sĩ, Người luôn dành những tình cảm đặc biệt và hơn ai hết, Người là tấm gương sáng thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với các thương binh, liệt sĩ.

Ngày 10/3/1946, Báo Cứu quốc đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ. Trong thư có đoạn: “Tôi xin kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc tranh đấu cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng”. Tiếp sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại viết: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam, đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh”.

Để nhân dân cả nước có dịp bày tỏ lòng biết ơn tới các thương binh và gia đình liệt sĩ và những người có công với đất nước, tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm “Ngày Thương binh”. Thực hiện chỉ thị của Người, tại Hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, ban, ngành ở trung ương và địa phương đã họp ở xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên bàn bạc, đề nghị lấy ngày 27/7/1947 làm “Ngày Thương binh – Liệt sỹ”. Từ đó tới nay, ngày 27/7 hàng năm trở thành “Ngày Thương binh – Liệt sỹ” trong cả nước. 

Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình lập lại trên miền bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Chiến khu Việt Bắc trở về sống và làm việc ở Thủ đô Hà Nội. Chiều 31-12-1954, Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đã tới đặt vòng hoa viếng các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc tại Đài Liệt sĩ Hà Nội. Trong lễ viếng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn từ: “Máu nóng của các liệt sĩ đã nhuộm lá Quốc kỳ vẻ vang càng thêm thắm đỏ. Tiếng thơm của các liệt sĩ sẽ muôn đời lưu truyền với sử xanh. Một nén hương thành. Vài lời an ủi. Anh linh các liệt sĩ bất diệt! Tổ quốc Việt Nam vĩ đại muôn năm!”

Trong lá thư đầu tiên Hồ Chí Minh viết nhân dịp 27/7, Người nhấn mạnh đến mục đích cao cả này với những lời thống thiết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sỹ mà nay một số thành ra thương binh”. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.

Lòng thương người của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện ở sự đồng cảm với những người thân trong gia đình bị mất con, người thân vì hy sinh cho Tổ quốc, song rất đỗi tự hào vì được “Tổ quốc ghi công”. Xuất phát từ lòng thương người đã hình thành quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng giúp đỡ thương binh không mang ý nghĩa nhất thời mà phải lâu dài, cơ bản. Tạo mọi điều kiện cho họ có khả năng hòa nhập tự nhiên, thích nghi với đời sống cộng đồng, có công cụ để hoạt động phù hợp với khả năng từng đối tượng, bảo đảm cuộc sống cho họ và gia đình. Ngoài những việc làm nghĩa cử của bản thân, đối với thương binh, liệt sỹ, Người cũng nhấn mạnh:

Để phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” trở thành một phong trào có sức lan tỏa sâu rộng trong thực tiễn, có hiệu quả và thiết thực, toàn Đảng, toàn dân phải vinh danh, ghi nhận công lao to lớn của thương binh, liệt sỹ và làm tốt hơn nữa công tác “Đền ơn đáp nghĩa”. 

Trong bản Di chúc thiêng liêng của Người, Bác của chúng ta cũng đã có biết bao điều căn dặn: 

“Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào ta phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.

Đối với các liệt sỹ, thì mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia tưởng niệm sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.

Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sỹ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.

Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người tích cực đi đầu thực hiện công tác đền ơn, đáp nghĩa thương binh, liệt sỹ. Ngay từ tháng 11/1946, Người đã ra thông báo về việc nhận con các liệt sỹ làm con nuôi, hàng năm đều có thư thăm hỏi động viên, khuyến khích thương binh, gia đình liệt sỹ. Trong vòng 22 năm (1947-1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 14 lần gửi quà, tiền nhân ngày thương binh, liệt sỹ. Quà tặng thường là những đồ dùng thiết yếu (quần áo, khăn mặt, vải, thuốc men, chăn…) và tiết kiệm tiền lương gửi vào quỹ thương binh toàn quốc. Việc làm của Người vừa thiết thực, vừa tạo thành một phong trào xã hội rộng lớn với nhiều hình thức phong phú và vô cùng cảm động đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.

Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn canh cánh trong lòng về việc đền ơn đáp nghĩa với thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Tháng 5/1968, mặc dù đang ốm mệt, Người vẫn đọc lại bản thảo Di chúc và viết bổ sung thêm một số nội dung gồm 6 trang viết tay, trong đó có đoạn về thương binh, liệt sĩ: “Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.

Đối với VKSND thành phố Cần Thơ luôn phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hàng năm nhân ngày kỷ niệm 27/7, Ban lãnh đạo Viện, Ban chấp hành Công đoàn cơ sở luôn đặc biệt quan tâm, ân cần thăm hỏi, chúc sức khỏe đến các gia đình, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn và tri ân sâu sắc đối với sự hy sinh, mất mát của các thương binh, anh hùng liệt sỹ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Việc thăm hỏi, tặng quà đối với gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng nhân ngày Thương binh – Liệt sỹ (27/7) của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ đã thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa” lòng biết ơn sâu sắc đối với những cống hiến, hy sinh của thế hệ cha ông đi trước. Đây là hoạt động mang tính nhân văn, có ý nghĩa sâu sắc và được Viện kiểm sát nhân dân thành phố tổ chức thường niên vào dịp 27/7 hàng năm.

VKSND TP Cần Thơ thăm, tặng quà cho gia đình cụ Trần Thị Biếu
(là thân sinh của đ/c Huỳnh Văn Ri, Viện trưởng VKSND TP. Cần Thơ)

Bên cạnh đó, khắc ghi lời dạy của Bác, hằng năm Đảng bộ Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ thành lập Đoàn cùng với các cơ quan ban, ngành thành phố để tiến hành dâng hoa, dâng hương lên Đài tưởng niệm liệt sĩ và thắp hương tại các phần mộ để bày tỏ lòng thành kính, tưởng nhớ và tri ân sâu sắc các anh hùng liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trong công cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.

Hoạt động dâng hương và thắp nến tri ân các anh hùng liệt sĩ là hoạt động rất ý nghĩa, cần thiết và là nét đẹp nhân văn truyền thồng của dân tộc Việt Nam nhằm giúp thế hệ cán bộ, đảng viên luôn nhận thức sâu sắc được ý nghĩa của Ngày Thương binh – Liệt sỹ (27/7), về lịch sử hào hùng của dân tộc, từ đó giúp phát huy truyền thống dân tộc bằng những việc làm thiết thực. Những việc làm đó giáo dục cho thế hệ trẻ hôm nay về một thời oanh liệt của đất nước, về những anh hùng dân tộc và luôn ghi nhớ về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc mà Bác Hồ kính yêu đã dạy: “Đời đời biết ơn các anh hùng liệt sỹ đã anh dũng hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc”, các thương binh, bệnh binh đã cống hiến máu xương, sức lực cho dân tộc./.

Tác giả bài viết: sưu tầm, tổng hợp.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *